COVID-19, NÃO BỘ VÀ NHỮNG ĐIỀU THÚ VỊ
Theo một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Các bệnh Truyền nhiễm Lâm sàng (JCI) của Tạp chí Chứng phình động mạch Hoa Kỳ (JAMA), bệnh nhiễm trùng SARS-CoV-2 có liên quan đến các vùng não nhỏ hơn, mặc dù sự tác động này không quá rõ ràng. Như là một phần của một nghiên cứu quét não, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng việc nhiễm SARS-CoV-2, vi rút gây ra COVID-19, có liên quan đến ít chất xám – mô chứa nhiều cơ thể của tế bào não.
Nghiên cứu mới gần đây về COVID - 19 và não bộ
Vào ngày 7 tháng 3, tạp chí Nature đã đưa ra một đề mục về việc COVID – 19 gây ra tổn thương cho não làm não co rút. Phương tiện truyền thông đưa tin này đã làm dấy lên sự lo lắng rộng khắp các mạng xã hội, với những tuyên bố về chứng mất trí nhớ khởi phát sớm và thối rữa não.
Nghiên cứu này được thực hiện bởi một nhóm chuyên gia gồm các nhà nghiên cứu hình ảnh não kì cựu – những người đã thực hiện loại nghiên cứu này trong thời gian dài. Hơn nữa, họ còn là một trong những người đầu tiên để ý đến những thay đổi của não bộ trước và sau khi nhiễm COVID. Trong 785 người tham gia nghiên cứu này, mỗi người đều đã được quét MRI 2 lần. Sau khi so sánh kết quả trước và sau khi quét, những nhà nghiên cứu phát hiện ra những thay đổi của những người nhiễm (401 người) và so sánh chúng với những người không bị nhiễm (384 người).
Kết quả cho thấy, sau khi bị COVID – 19, nghiên cứu cho thấy rằng trung bình mọi người có ít chất xám hơn ở bộ phận não xử lí khứu giác. Với những gì ta biết về xu hướng thay đổi của não bộ, điều này không hề đáng ngạc nhiên.
Có một thông tin khá thú vị: sự phát triển của cơ thể là một trong những điều có thể thay đổi bộ não của bạn. Sự kết nối của các tế bào thừa mà bạn có khi còn là một đứa trẻ sẽ được cắt tỉa và tinh chỉnh. Trong những năm thiếu niên, các bộ phận trong não của bạn sẽ nhỏ lại, xu hướng này tiếp tục khi bạn lớn lên và tiếp tục thay đổi khi bạn già đi.
Nhà khoa học thần kinh Emily Jacobs thuộc Đại học California, Santa Barbara còn cho biết: “Bộ não rất năng động. Ít tế bào não hơn không có nghĩa là tệ hơn, và nhiều hơn không có nghĩa là tốt hơn.”
Các khu vực não to lên và thu nhỏ theo thời gian, và những thay đổi này có liên quan đến nồng độ hormone trong suốt chu kỳ kinh nguyệt
Jacobs và các đồng nghiệp của cô đã phát hiện ra rằng trong suốt nhiều ngày, các vùng não liên tục phát triển và co lại, và những thay đổi này có liên quan đến nồng độ hormone trong chu kỳ kinh nguyệt. Jacobs nói rằng: Sự thay đổi này được tìm thấy ở cá ngựa, với cấu trúc não gắn liền với học tập và trí nhớ. Trong lúc đó, các khu vực lân cận, “ngộ nhận rằng não bộ không hề thay đổi”. “Mặc dù vậy, chúng ta có thể thấy rõ ràng sự lên xuống của thay đổi này.”
Không chỉ vậy, khi mang thai, sự thay đổi hormone sau đó cũng có thể thay đổi não. Vào năm 2016, một nghiên cứu đã mô tả việc giảm chất xám liên quan đến thai kỳ. Đồng tác giả nghiên cứu Elseline Hoekzema, một nhà khoa học thần kinh tại Đại học Leiden, Hà Lan, cũng đã nói rằng quá trình này dường như là giai đoạn thứ hai của quá trình trưởng thành của não, tương tự như quá trình tinh chỉnh xảy ra ở tuổi thiếu niên.
Thay đổi của não bộ sau COVID-19
Gwenaëlle Douaud, thuộc khoa Khoa học Thần kinh Lâm sàng Nuffield tại Đại học Oxford, cho biết: “Chúng tôi khá ngạc nhiên khi thấy sự khác biệt rõ ràng trong não, ngay cả khi bị nhiễm trùng nhẹ. “Điều đáng lo ngại là những thiệt hại này sẽ kéo dài và khiến những người nhiễm bệnh dễ mắc các bệnh về não hơn trong tương lai.”
“Nhưng những khác biệt này có thể không kéo dài”, Douaud nói. Cô ấy chú ý rằng não có thể “tự tổ chức lại và tự chữa lành ở một mức độ nhất định, ngay cả ở những người lớn tuổi. Một nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng nghẹt mũi cũng có thể dẫn đến những thay đổi về não bộ, một trong số đó tương tự như những thay đổi mà các nhà nghiên cứu đã tìm thấy trong nghiên cứu quét não gần đây.
Việc quét lại những người tham gia nghiên cứu não gần đây sau vài năm sẽ trả lời câu hỏi về tính lâu dài. Nhưng vào thời điểm hiện tại, chúng ta vẫn không thể chắc chắn liệu những thay đổi này của não bộ có kéo dài hay không – và ý nghĩa của chúng đối với một bộ não khỏe mạnh là gì. Jacobs còn nói: “Chúng tôi không thể phân biệt được đâu là thay đổi bình thường và đâu là thay đổi bất thường đối với con người.”
Cho đến khi các nhà khoa học tìm hiểu sâu hơn về bộ não, bao gồm những thay đổi thông thường của não mà không có mặt trái cũng như không quan trọng, chúng ta không thể biết điều gì đáng lo ngại. Vì vậy, hiện tại, vẫn còn khó có thể nắm bắt thông tin chính xác về vấn đề này.